Theo báo cáo của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, trong năm 2021 tình hình trật tự an toàn giao thông tiếp tục có chuyển biến tốt, cả 03 tiêu chí về số vụ, số người chết và số người bị thương do tai nạn giao thông đều giảm sâu so với cùng kỳ năm 2020, cụ thể: tính từ ngày 15/12/2020 đến 14/12/2021), toàn quốc xảy ra 11.495 vụ tai nạn giao thông, làm chết 5.799 người, bị thương 8.018 người. So với 12 tháng năm 2020, số vụ tai nạn giao thông giảm 3.496 vụ (-23,32%), số người chết giảm 1.068 người (-15,55%), số người bị thương giảm 3.143 người (-28,16%). Có 55 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có số người chết do TNGT giảm so với cùng kỳ năm 2020, trong đó có An Giang và Sơn La giảm trên 40% số người chết do tai nạn giao thông. Tuy nhiên, vẫn còn 04 tỉnh có số người chết do tai nạn giao thông tăng so với cùng kỳ 2020, 02 tỉnh có số người chết tăng trên 10% trở lên là: Kiên Giang và Thái Bình. Về ùn tắc giao thông: trong năm 2021, toàn quốc xảy ra 124 vụ ùn, tắc giao thông kéo dài trên các quốc lộ.
Qua công tác điều tra, xử lý, theo dõi về các vụ tai nạn giao thông ngoài các lý do khách quan thì nguyên nhân chính của các vụ tai nạn giao thông là do người điều khiển phương tiện, người tham gia giao thông chưa tuân thủ nghiêm các quy định về bảo đảm trật tự an toàn giao thông; công tác quản lý lái xe của một số doanh nghiệp kinh doanh vận tải còn thiếu chặt chẽ, chưa hiệu quả, trong khi lực lượng chức năng thực hiện các nhiệm vụ thanh tra, tuần tra kiểm soát còn mỏng trên các địa bàn quản lý.
Dưới đây là tổng hợp Phân tích tai nạn giao thông đường bộ xảy ra trên cả nước trong năm 2021 :
Nguyên nhân xảy ra tai nạn giao thông (phân tích trên 9.228 vụ): Có 18,25% do người điều khiển phương tiện vi phạm làn đường, phần đường; 9,16% do chuyển hướng không chú ý; 5,03% do vượt xe sai quy định; 4,01% do vi phạm tốc độ xe chạy; 3,66% do sử dụng rượu bia; 0,03% do người điều khiển phương tiện sử dụng ma túy, chất gây nghiện; 2,86% do người đi bộ sang đường không đúng quy định; 0,53% do dừng, đỗ sai quy định; 0,27% do phương tiện không đảm bảo ATKT; 0,24% do công trình giao thông đường bộ không đảm bảo an toàn; 44,03% là các nguyên nhân khác.
Về giới tính (phân tích trên 9.923 vụ): 80,4% do nam; 19,6% do nữ.
Về độ tuổi (phân tích trên 3.323 vụ): 10,63% dưới 18 tuổi; 20,34% từ 18 đến đến dưới 27 tuổi; 55,62% từ 27 đến 35 tuổi; 13,41% trên 35 tuổi.
Về thời gian (phân tích trên 11.104 vụ): 8,83% từ 0h đến 06h; 20,4% từ sau 06h đến 12h; 30,92% từ sau 12h đến 18h; 39,84% từ sau 18h đến 24h.
Về tuyến đường (phân tích trên 10.522 vụ): 1,99% xảy ra trên cao tốc; 39,52% quốc lộ; 21,15% tỉnh lộ; 22,09% nội thị; 13,49% nông thôn; 1,76% đường khác.
Về phương tiện (phân tích trên 19.834 vụ): Mô tô, xe máy 57,44%; ô tô 35,25%; phương tiện khác 7,31%.
Để công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông trong thời gian tới đạt nhiều kết quả hơn, cần tiếp tục hoàn thiện, triển khai quyết liệt các cơ chế, chính sách có ảnh hưởng lớn đến công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông theo chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin ở cả chiều rộng và chiều sâu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và hiệu lực thi hành pháp luật trong lĩnh vực giao thông vận tải. Trong đó chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác về tổ chức, điều hành giao thông, quản lý hoạt động kinh doanh vận tải, quản lý đào tạo, cấp giấy phép chứng chỉ chuyên môn nghiệp vụ, đăng kiểm phương tiện. Ngoài ra, cần tiếp tục triển khai hiệu quả các hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông; xử lý các bất cập về kết cấu hạ tầng giao thông; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chấn chỉnh, xử lý các vi phạm về bảo đảm trật tự an toàn giao thông; phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại...
Đại Nghĩa